Các vùng địa lý Hệ động vật châu Á

Nhìn chung, tổng diện tích rừng ở châu Á chiếm chừng 13% tổng diện tích rừng thế giới. Rừng nhân tạo có sự phát triển nhất định. Phần Nga châu Á, phía đông bắc Trung Quốc và phía bắc Triều Tiên là vùng đất rừng lá kim phân bố rộng lớn trên thế giới, lượng tích tụ phong phú. Thực vật ở vùng Hoa Nam và phía tây nam Trung Quốc, sườn phía nam vùng núi Nhật Bản cùng với sườn phía nam của mạch núi Himalaya vô cùng phong phú, trừ cây lá rộng phổ biến ra, lại có cây kè, cọ xẻ, cây sam và cây thuỷ sam. Rừng rậm nhiệt đới ở Đông Nam Á chiếm địa vị trọng yếu trong rừng rậm thế giới, nổi tiếng với một dãy quần xã thực vật lâu đời và phong phú. Giống cây chủ yếu của nó có họ Dầu, lại có các "hoá thạch sống" như cây sa la, cây ngân hạnhcây tô thiết. Tổng diện tích thảo nguyên châu Á chiếm chừng 15% tổng diện tích thảo nguyên thế giới.[1] Với sự đa dạng như vậy, châu Á có thể phân chia thành:

Khu vực châu Âu-Viễn Đông

Vùng ôn đới và châu Âu-Siberi là vùng lớn nhất của Cổ Bắc giới (Palearctic), nơi chuyển tiếp từ lãnh nguyên (đài nguyên) ở các vùng phía bắc của Nga và Scandinavia đến rừng Taiga rộng lớn hay rừng cây lá kim, những khu rừng cây lá kim trải dài khắp lục địa. Nước dạng lỏng không có nhiều trong phần lớn mùa đông, thực vật và nhiều loài động vật trải qua thời kỳ ngủ đông trong mùa đông, trong đó quá trình trao đổi chất diễn ra rất chậm. Phía nam của rừng Taiga là một vành đai rừng hỗn hợp rừng lá rộng ôn đới và rừng lá kim ôn đới. Khu vực rộng lớn này được đặc trưng bởi nhiều loài động thực vật được chia sẻ môi trường sống. Chính những yếu tố về khí hậu và môi trường như trên đã định hình khu hệ động vật nơi đây theo hướng chủ đạo là các loài động vật thích nghi với cái lạnh,một số loài động vật có vú đặc trưng là hươu Siberia, sói xám, nai sừng tấm và chó sói. Một số hệ động vật đặc trưng nơi đây như hệ động vật Nga.

Lưu vực Địa Trung Hải

Các vùng đất giáp biển Địa Trung HảiTây Nam Á là nơi có các vùng sinh thái lưu vực Địa Trung Hải, cùng tạo thành vùng khí hậu Địa Trung Hải lớn nhất và đa dạng nhất trên thế giới, với mùa đông thường ôn hòa, mưa nhiều và mùa hè khô nóng. Bức tranh tổng thể của các khu rừng Địa Trung Hải với những rừng câycây bụi ở lưu vực Địa Trung Hải là nơi sinh sống của 13.000 loài đặc hữu. Lưu vực Địa Trung Hải cũng là một trong những vùng địa lý sinh học có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới, chỉ 4% thảm thực vật nguyên thủy của khu vực còn sót lại và các hoạt động của con người, bao gồm chăn thả gia súc quá mức, phá rừng và chuyển đổi đất để làm đồng cỏ, nông nghiệp hoặc đô thị hóa, đã làm suy thoái phần lớn khu vực. Tổ chức Bảo tồn Quốc tế đã chỉ định lưu vực Địa Trung Hải là một trong những điểm nóng về đa dạng sinh học của thế giới.

Sa mạc Trung Đông

Một vành đai lớn của các sa mạchoang mạc, bao gồm cả sa mạc Ả Rập, ngăn cách các vùng sinh thái Palearctic, Afrotropic và các vùng thực sự của châu Á. Khu vực này bao gồm các vùng sinh thái sa mạc này trong Cổ Bắc giới/Palearctic; các nhà địa lý sinh học khác xác định ranh giới giữa các vùng là vùng chuyển tiếp giữa vùng sinh thái sa mạc và vùng sinh thái lưu vực Địa Trung Hải ở phía bắc, nơi tọa lạc của các sa mạc ở Afrotropic, trong khi những quan điểm khác đặt ranh giới qua giữa sa mạc. Về sự hiện diện của khu hệ động vật, các loài linh dương sa mạc, mèo cát và thằn lằn đuôi gai là một số loài thích nghi với sa mạc và sống sót trong môi trường khắc nghiệt, cháy bỏng và khô cằn này gọi chung là kiểu động vật sa mạc. Nhiều loài, chẳng hạn như linh cẩu sọc, chó rừnglửng mật đã tuyệt chủng ở khu vực này do nạn săn bắn, sự xâm phạm của con người và phá hủy môi trường sống. Các loài khác đã được tái du nhập thành công, chẳng hạn như linh dương sừng thẳng Ả Rậplinh dương cát.

Tây Á và Trung Á

Dãy núi Caucasus trãi dài giữa Biển Đen và Biển Caspi, là một phức hợp đặc biệt phong phú của rừng hỗn hợp lá kim, lá rộngrừng hỗn hợp, và bao gồm các khu rừng mưa ôn đới của vùng sinh thái rừng rụng lá Euxine-Colchic. Trung Á và cao nguyên Iran là nơi có đồng cỏ thảo nguyên khô và lưu vực sa mạc, với rừng trên núi, rừng cây và đồng cỏ ở các núi cao và cao nguyên của khu vực. Ở miền nam châu Á, ranh giới của Palearctic phần lớn là theo chiều dọc. Các chân núi ở độ cao trung bình của Himalaya trong khoảng 2000–2500 m tạo thành ranh giới giữa vùng sinh thái Palearctic và Indomalaya. Hệ động vật chủ đạo ở đây là các khu hệ động vật thảo nguyên đồng cỏ với đặc trưng là chân dài cánh rộng để chạy nhảy sải bước trên các thảo nguyên bao la, tiêu biểu như hệ động vật Mông Cổ...

Khu vực Đông Á

Khu vực Đông Á nổi bật với các vùng sinh thái của Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản có độ ẩmôn đới cao hơn so với Siberia và khu vực Trung Á liền kề, đồng thời là nơi có nhiều rừng hỗn giao, rừng lá rộngrừng lá kim ôn đới phong phú, hiện nay chủ yếu giới hạn ở các khu vực miền núi, do các vùng đất thấplưu vực sông đông dân cư đã được chuyển đổi thành đất sử dụng trong nông nghiệp (đất nông nghiệp) và thâm canh cùng với đất đô thị. Khu vực Đông Á không bị ảnh hưởng nhiều bởi băng hà trong Kỷ băng hà.

Ở phần phía nam cận nhiệt đới của Trung Quốc và Nhật Bản, rừng ôn đới Palearctic chuyển tiếp sang rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Indomalaya, tạo ra một hỗn hợp đa dạng và phong phú giữa các loài động thực vật. Các dãy núi phía tây nam Trung Quốc (Vân Nam) cũng được coi là điểm nóng đa dạng sinh học, ví dụ như dãy Himalaya chứa khoảng 8% các loài chim trên thế giới. Ở Đông Nam Á, các dãy núi cao tạo thành các lưỡi của hệ động thực vật Palearctic ở miền bắc Myanmar và miền nam Trung Quốc. Các tiền đồn nhỏ biệt lập (đảo trên bầu trời) nằm xa về phía nam như miền trung Myanmar, cực bắc Việt Nam và vùng núi cao của Đài Loan. Hệ động vật trung tâm ở khu vực này là hệ động vật Trung Quốc với khu hệ động vật các loài trải dài trên lãnh thổ Trung Quốc là trung tâm của vùng Đông Á.

Tiểu lục địa Ấn Độ

Tiểu lục địa Ấn Độ bao gồm hầu hết vùng Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Nepal, BhutanSri Lanka. Các dãy Hindu Kush, Karakoram, HimalayaPatkai giới hạn sinh vật ở phía tây bắc, bắc và đông bắc. Những dãy này được hình thành do sự va chạm của tiểu lục địa Ấn Độ trôi về phía bắc với châu Á bắt đầu từ 45 triệu năm trước. Hindu Kush, Karakoram và Himalaya là ranh giới địa lý sinh học chính giữa hệ động vật kiểu nhiệt đới và hệ động vật kiểu cận nhiệt đới của tiểu lục địa Ấn Độ và lãnh thổ Palearctic với khí hậu ôn hòa. Tây Ghats và Sri Lanka là những điểm nóng đa dạng sinh học quan trọng. Đặc trưng của tiểu lục địa Ấn Độ nổi bật là khí hậu nhiệt đới gió mùa rõ rệt. Hệ động vật đặc trưng và tiêu biểu nơi đây chính là hệ động vật Ấn Độ với dạng chủ đạo là các loài động vật rừng nhiệt đới.

Khu vực Đông Dương

Vùng sinh thái Đông Dương bao gồm phần lớn lục địa Đông Nam Á hay còn gọi là bán đảo Đông Dương hay bán đảo Trung Ấn, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt NamCampuchia, cũng như các khu rừng cận nhiệt đới ở miền nam Trung Quốc, chẵn hạn như ở Vân Nam. Nó bao phủ phần giàu có nhất của lãnh thổ Indomalayan, với các quần xã sinh vật chiếm ưu thế là rừng lá rộng ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới và rừng lá rộng khô. Các loài mới và thậm chí cả các họ thường được tìm thấy ở đó (ví dụ: chuột đá Lào). Đây là nơi sinh sống của khoảng 500 loài động vật có vú bản địa. Khu hệ chim cũng rất đa dạng, có khoảng 1.300 loài. Hơn 500 loài bò sát và hơn 300 loài lưỡng cư cũng có mặt tại đây, bao gồm nhiều loài đặc hữu. Một trong những hệ động vật tiêu biểu cho khu vực Đông Dương là hệ động vật Việt Nam với nền chủ đạo là các loài động vật kiểu rừng nhiệt đới gió mùa.

Thềm Sunda và Philippines

Malesia là một khu vực nằm giữa ranh giới giữa lãnh thổ Indomalayan và Australasia. Nó bao gồm bán đảo Mã Lai và các đảo phía tây Indonesia (Sumatra, Java, Borneo và những đảo khác, được gọi là Sundaland hay đa đảo), Philippines, các đảo phía đông Indonesia và New Guinea. Trong khi Malesia có nhiều điểm chung về mặt thực vật học, các phần phía đông và phía tây của Dòng Wallace khác nhau rất nhiều ở các loài động vật trên cạn; Sundaland có chung hệ động vật với châu Á lục địa, trong khi các đảo phía đông của dòng Wallace hoặc thiếu động vật có vú trên cạn hoặc là nơi sinh sống của hệ động vật trên cạn có nguồn gốc từ hệ động vật Úc, bao gồm động vật có túi và chim ăn thịt. Tuy nhiên, côn trùng của New Guinea chủ yếu có nguồn gốc châu Á. Một số hệ động vật tiêu biểu có thể kể đến như hệ động vật Indonesia, hệ động vật Philippines, hệ động vật Singapore...